Ngày 8/9, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Hữu Độ cho biết quan điểm của Bộ GD&ĐT về tài liệu tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục xuất hiện trên các báo trung ương và địa phương.
Theo Thứ trưởng Nguyễn Hữu Độ, bộ sách Tiếng việt 1- CNGD là kết quả nghiên cứu từ năm 1978 của một số nhà khoa học, đứng đầu là GS.TSKH Hồ Ngọc Đại thông qua các đề tài nghiên cứu và được áp dụng vào dạy học ở Trường Thực nghiệm Giảng Võ, Hà Nội.
Căn cứ kết quả nghiên cứu và áp dụng thí điểm trong dạy học môn tiếng Việt ở lớp 1 tại trường Thực nghiệm và một số cơ sở giáo dục, Bộ GD&ĐT đồng ý cho các địa phương có nhu cầu và bảo đảm các điều kiện được áp dụng vào việc dạy học tiếng Việt lớp 1, nhất là ở những vùng khó từ năm học 2008-2009 đến năm học 2016-2017 trên tinh thần tự nguyện của các địa phương.
Trong năm 2017 và 2018, Bộ GD&ĐT đã tổ chức Hội đồng thẩm định quốc gia tài liệu TV1- CNGD. Sau hai vòng thẩm định, Hội đồng thẩm định đã đánh giá: tài liệu TV1- CNGD về cơ bản bảo đảm các yêu cầu về mục tiêu, chuẩn kiến thức kỹ năng của môn tiếng Việt lớp 1 trong Chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học. Tài liệu TV1- CNGD đã được các tác giả chỉnh sửa, hoàn thiện theo Kết luận của Hội đồng thẩm định.
Căn cứ kết quả khảo sát, đánh giá của Viện KHGD Việt Nam và ý kiến kết luận của Hội đồng thẩm định TV1-CNGD, Bộ GD&ĐT hướng dẫn các sở GD&ĐT triển khai tài liệu TV1-CNGD phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương trên nguyên tắc tự nguyện của nhà trường trong năm học 2017-2018 và năm học 2018-2019 ở những nơi đang triển khai và không mở rộng để giữ ổn định cho đến khi thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới.
Cùng ngày, tại Hà Nội, Hội Truyền thông số đã tổ chức sự kiện Café số có chủ đề về giáo dục mà GS Hồ Ngọc Đại là khách mời và nội dung xoay quanh công nghệ giáo dục. Báo Thanh niên ghi lại, trong cuộc tọa đàm, GS Hồ Ngọc Đại cho biết ông không để ý tới “cơn bão mạng” xung quanh cuốn Tiếng Việt lớp 1 công nghệ giáo dục.
Theo GS Hồ Ngọc Đại, cuốn Tiếng Việt 1 thì ông là người viết lại bản thảo cuối cùng, ký tên ông. Nhưng nó là sản phẩm có sự đóng góp của hàng chục, hàng trăm và thậm chí hàng ngàn người. Ông ký tên mình là để tự chịu trách nhiệm về nó. GS chia sẻ, mình dùng những gì nhân loại đã có, ví dụ tiếng Việt lớp 1 là thành tựu 300 năm nghiên cứu về ngữ âm tiếng Việt…
GS khẳng định: Dù học sinh đó được sinh ra ở đâu, gia đình nào, dân tộc nào, 6 tuổi lần đầu tiên đến trường, học Tiếng Việt theo sách giáo khoa của tôi, thì cuối năm em sẽ đọc thông viết thạo, viết đúng chính tả và không thể tái mù. Theo mạch đó, học tiếp lớp 2, em viết thành câu; học tiếp lớp 3, em không bao giờ viết sai câu tiếng Việt”.
Liên quan đến dư luận nói cách dạy chữ lạ bằng hình vuông, tròn, tam giác, GS Hồ Ngọc Đại cho biết, ngay từ lớp 1 của Ngô Bảo Châu hồi đó học kỳ 1 các học sinh không học chữ, học toàn hình vuông, hình tròn, hình tam giác. “Bởi học sinh phải nắm được tiếng, mà tiếng thì biểu thị gì chẳng được. Cho nên học sinh của tôi biết 2 cái quan trọng nhất : vật thật và vật thay thế. Vật thật là cái gì, và cái gì là vật thay thế”. Chữ là một trong những vật thay thế chứ không phải vật thay thế duy nhất, vì có nhiều vật thay thế. Vật thay thế là trò chơi, là quy ước, mà quy ước thì có luật lệ của quy ước. Học tiếng Việt của công nghệ giáo dục, trẻ con ngay từ lớp 1 phải biết được những điều đó.