Định nghĩa thường là câu dài nhất
Đây là kinh nghiệm xương máu mà các anh chị học sinh ngày trước đã đúc kết lại được. Cụ thể, với những câu hỏi lý thuyết dưới dạng định nghĩa, yêu cầu chọn phương án đúng thì hãy để ý đến những câu nào dài nhất, trau chuốt từ ngữ nhất. Đó thông thường sẽ là đáp án chính xác.
Ngoài ra, theo chia sẻ cho thấy các phương án sai thường có từ “chỉ”, “toàn bộ”, “luôn luôn”.
Còn với các câu bài tập, nếu không còn thời gian thì hãy lấy từng đáp án thế số vào và tính. Cái nào ra kết quả là số chẵn thì đó chính là phương án chính xác nhất.
Chọn câu nào quen thuộc
Cách nhanh và ít tốn thời gian nhất đó là hãy quan sát xem câu nào quen mắt nhất trong số các đáp án. Để làm được như vậy, trong quá trình ôn tập thí sinh chỉ nên học mỗi đáp án chính xác, không học các đáp án bên cạnh, tránh hiện tượng lúng túng, phân vân.
Học sinh đọc vội đề dễ chọn nhầm đáp án
Theo thầy Nam, trong quá trình học một số em không định hình rõ ràng được phương pháp làm bài đối với dạng bài tập trắc nghiệm. Do vậy, khi làm bài, học sinh cần suy nghĩ kỹ và áp dụng phương pháp phù hợp với từng bài và bám sát 4 đáp án để tìm ra đáp án đúng nhanh nhất.
Ví dụ: Đề bài cho A quy định hạt tròn, alen lặn a quy định hạt dài; B quy định hạt chín sớm, alen lặn b quy định hạt chín muộn. Hai gen này thuộc cùng một nhóm gen liên kết. Tiến hành cho các cây hạt tròn, chín sớm tự thụ phấn, thu được 1000 cây đời con với 4 kiểu hình khác nhau, trong đó có 240 cây hạt tròn, chín muộn. Biết rằng mọi diễn biến trong quá trình sinh hạt phấn và sinh noãn là như nhau. Kiểu gen và tần số hoán vị gen (f) ở các cây đem lai là:
A. AB/ab và f = 20%. B. Ab/aB và f = 20%.
C. Ab/aB và f = 40%. D. AB/ab và f = 40%.
Với câu này, sau khi học sinh đọc đề thì phải thấy được ngay là đề hỏi tần số hoán vị, mà mọi diễn biến trong quá trình sinh hạt phấn và sinh noãn là như nhau. Khi đó, học sinh cần định hình và nghĩ ngay đến các công thức tính nhanh. Cụ thể, nếu gọi tỷ lệ giao tử ab là x thì tỷ lệ kiểu hình lặn sẽ là x2. Khi đó, tỷ lệ kiểu hình hạt tròn, chín muộn (1 trội + 1 lặn) = 25% – x2 => 25% – x2 = 240/1000 => x = 10% < 20%
=> Đây là giao tử sinh ra do hoán vị => Kiểu gen cây đem lai có kiểu gen và tần số hoán vị f = 20%. Như vậy, đáp án đúng là B.
Học sinh thường học lan man, không biết đầu tư sắp xếp thời gian, thiếu phương pháp học tập hiệu quả cho từng phần.
Ví dụ: Phần nội dung Tính quy luật của hiện tượng di truyền có 11 câu trong đề, đa phần là bài tập. Vậy điều học sinh cần là cách giải các dạng bài tập quy luật di truyền chứ không phải là đầu tư học quá nhiều lý thuyết phần này.
Thầy Nam cho biết thêm, khi làm bài môn Sinh, học sinh hay vội vàng, đọc không kỹ đề dẫn đến hiểu sai ý hỏi, chọn nhầm đáp án.
Ví dụ: Đề bài cho với 4 loại nucleotit A, U, G, X, thì số bộ ba mã hóa có chứa nucleotit loại G tối đa có thể được tạo ra là
A. 27. B. 37. C. 35. D. 34.
Với câu này, rất nhiều em đọc đề không kỹ nên sẽ làm ngay là: Số loại bộ ba chỉ có 3 loại nucleotit A, U, X là: 3x3x3 = 27 (bộ ba). Vậy số bộ ba có chứa G là: 64 – 27 = 37 (bộ ba) khi đó các em sẽ chọn đáp án B. Tuy nhiên, đề hỏi số bộ ba mã hóa có chứa nucleotit loại G. Mà trong 3 mã kết thúc thì có hai mã là UAG, UGA có G. Do đó, số bộ ba mã hóa có G = 37 – 2 = 35 => Đáp án đúng phải là C.
Học sinh thường chủ quan với câu hỏi lý thuyết. Đây là một sai lầm lớn đối với các em. Bởi vì lí thuyết chiếm 6 điểm trong đề thi đại học nhưng rất nhiều em khi học bài thường coi nhẹ học các phần lý thuyết. Việc này dẫn đến học sinh không lắm vững bản chất của kiến thức nên đi thi đáp án đúng thì nhầm tưởng là sai, đáp án sai nhầm tưởng là đúng.
Ví dụ: Đề bài hỏi, cơ chế điều chỉnh số lượng cá thể của quần thể không phải là:
A. Tỷ lệ sinh tăng thì tỉ lệ tử giảm trong quần thể.
B. Sự cạnh tranh cùng loài và sự di cư của một bộ phận hay cả quần thể.
C. Sự thay đổi mức sinh sản và tử vong dưới tác động của nhân tố vô sinh và hữu sinh.
D. Sự điều chỉnh vật ăn thịt và vật ký sinh.
Với câu này, khi học sinh chưa hiểu rõ nội dung hỏi nhiều em nghĩ đáp án đúng sẽ không phải là A mà tập trung vào một một chọn một trong 3 đáp án B, C, D. Tuy nhiên, ở câu hỏi này đáp án đúng lại là A và nhiều em học sinh không đọc kỹ đề bài đã bị lừa.
Khi nhận đề thi, học sinh làm bài thi theo 3 vòng.
Vòng 1, các em làm câu hỏi dễ trước. Khi đọc xong đề phát hiện ngay ra đáp án đúng thì phải tô ngay vào phiếu trả lời trắc nghiệm. Câu nào học sinh không làm được thì cần đánh dấu ở ngay trên đề để tiện cho việc theo dõi.
Vòng 2, học sinh chọn làm các câu hỏi mức trung bình. Ở dạng câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ kỹ hơn. Tuy nhiên, nếu không chu ý thời gian thì học sinh rất dễ bị rơi vào trạng thái hết giờ mà chưa làm xong vòng này. Vì vậy, học sinh cần đặc biệt chu ý thời gian khi làm vòng này để đạt hiệu quả cao.
Vòng 3, các em chọn làm câu hỏi khó. Đây là dạng câu hỏi cần học sinh phải suy nghĩ nhiều hoặc phải có phương pháp giải đặc biệt với tìm ra đáp án. Gặp dạng này đôi khi học sinh nghĩ thật kỹ thì ra, nhưng đôi khi càng nghĩ càng thấy bế tắc. Do đó, nếu thật sự bế tắc học sinh có thể dùng phương án loại trừ dần những phương án bản thân mình cho là sai.
Ngoài kiến thức, muốn làm bài thi tốt cần phải có kinh nghiệm mẹo làm bài trắc nghiệm. Mẹo này như sau:
– Đọc lướt qua một lần tất cả các câu hỏi.
– Câu dễ, dạng câu quen thuộc hoặc câu nắm vững kiến thức chọn làm trước. Câu khó, chưa vững kiến thức hoặc dạng câu chưa gặp bao giờ thì làm sau.
– Không nên dành quá nhiều thời gian cho một câu nào đó, nếu câu chưa giải quyết được ngay thì chuyển sang câu khác, lần lượt làm đến hết, sau đó mới quay lại nếu còn thời gian. Đừng để tình trạng vướng vào câu khó mình không biết mà bỏ qua cơ hội giành điểm ở những câu khác có thể trả lời được tốt ở phía sau (vì các câu trong trắc nghiệm điểm như nhau, không kể dễ hay khó).
– Nếu câu nào còn đang phân vân đáp án đúng thì ta loại bỏ các phương án sai trước, sau đó cân nhắc các phương án còn lại, như vậy việc lựa chọn sẽ nhanh hơn và xác suất trả lời đúng sẽ cao hơn.
– Không nên thử vận may bằng đánh dấu một loại đáp án.
– Tuyệt đối không bỏ một câu nào, kể cả câu không thể trả lời được cũng nên chọn một trong các phương án đã cho. Nếu may mắn thí sinh có thể trả lời đúng, còn nếu sai cũng không sao vì không bị trừ điểm.
– Đối với bài tập nếu không làm được thì dựa vào đáp án đã cho coi như đã có kết quả thay bằng các dữ kiện để thử ra đáp án đúng.
Ngoài ra còn 3 mẹo quan trọng sau:
1. Bạn nên chú ý đến những câu có thông tin mang tính chủ đề, chủ điểm mà bạn được học. Lúc này nên vận dụng khả năng nhận xét thì sẽ có lợi thế hơn, vì những câu hỏi này thường đơn giản, và mang tính đo lường trí nhớ.
2. Đọc kỹ câu hỏi và liên hệ với kiến thức học được để giải thích hiện tượng đó. Giải thích chứng tỏ bạn hiểu rõ và không học vẹt. Có thể giải thích bằng ý nghĩa của khái niệm, hiện tượng quan trọng, hay mối liên hệ giữa những gì đã học và đã nhớ. Ví dụ: Noãn cầu bình thường của một hạt kín có 12 nhiễm sắc thể (NST). Hợp tử chính ở noãn đã thụ tinh ở cây này là 28 NST. Bộ nhiễm sắc thể của bộ đó thuộc dạng đột biến nào? A: 2n+1; B: 2n+1+1; C: 2n+2; D: 2n +2+2. Nếu liên hệ được hiện tượng thụ tinh kép, học sinh sẽ biết noãn cầu chứa n=12 NST để suy ra được 2n =24+4 thì nhận ra được đáp án đúng là D: 2n+2+2.
3. Tư duy vận dụng để giải quyết những vấn đề mới và giải thích, tình huống mới. Đây thường là những câu hỏi khó của bài thi, cần đòi hỏi độ tư duy tương xứng. Học sinh phải biết dự đoán có căn cứ hệ quả của việc áp dụng. Đây chính là kỹ năng giải quyết vấn đề mà bạn cần ôn tập nhiều bằng việc làm bài tập thường xuyên.